Lịch sử ngày 8/3 và hai bà trưng

      472
Giao lưu trực tuyến Ý kiến đoàn viên Công nhân hỏi - Công đoàn trả lời Văn phòng điện tử TLĐ Quản lý đoàn viên
*
*
*

Từ đó, ngày 8/3 hàng năm trở thành ngày đấu tranh chung của phụ nữ lao động trên toàn thế giới, là biểu dương ý chí đấu tranh của phụ nữ khắp nơi trên thế giới đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội; vì quyền lợi hạnh phúc của phụ nữ và nhi đồng.

Bạn đang xem: Lịch sử ngày 8/3 và hai bà trưng

Ở nước ta, ngày 8/3 còn là dịpkỷ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hai vị nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ nguyên bờ cõi, giang sơn đất Việt.

Thắng lợi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà trưng được đánh giá là một bản anh hùng ca bất diệt, thể hiện ý chí độc lập và niềm tự hào dân tộc. Đồng thời, cuộc khởi nghĩa cũng là một minh chứng cho sức mạnh của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử nhân loại, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xem thêm: Tổng Hợp Phim Ma Cương Thi Lâm Chánh Anh Phim Và Chương Trình Truyền Hình

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hai Bà Trưng là dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh. Cha mất sớm, hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị được mẹ là bà Man Thiện một mình nuôi dạy hai con trở thành người có đức, có tài, sớm được nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và thượng võ. Thời đó, quân Đông Hán đô hộ nước ta, cử Tô Định làm thái thú Giao Chỉ. Tô Định vốn nổi tiếng tham lam, tàn bạo, đã tăng cường thu các loại thuế và đồng hóa dân ta, gây nên bao nỗi oán thán, uất hận trong nhân dân. Chúng trói buộc dân ta phải tuân theo lễ giáo phong kiến Hán từ cách ăn mặc đến việc lấy vợ, lấy chồng và hạn chế quyền hành của các lạc tướng. Chính sách tàn bạo của chúng khiến người người đều oán giận, nhân dân sục sôi khí thế nổi dậy chống lại quân xâm lược, lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than, Hai Bà Trưng càng tăng thêm lòng diệt thù, phục quốc. Hai Bà đã chiêu tập binh sĩ, sắm sửa khí giới quyết tâm khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ, khôi phục nền độc lập dân của dân tộc, đền nợ nước, trả thù nhà. Tương truyền ngày mồng 6 tháng Giêng, Hai Bà Trưng mở tiệc khao quân, làm lễ tế cờ khởi nghĩa trên dàn thề trước quân sĩ ở cửa sông Hát (thuộc đất Mê Linh) Hai Bà đã thể hiện ý chí kiên cường:

Một xin rửa sạch nước thù

Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng,

Ba kẻo oan ức lòng chồng

Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này!

Ngọn cờ khởi nghĩa như tiếng gọi thiêng liêng cứu nước đã lan truyền rộng rãi và nhận được sự hưởng ứng của các lạc tướng yêu nước ở khắp các quận huyện vùng lưu vực sông Hồng. Phụ nữ là lực lượng đông đảo tham gia đội ngũ của nghĩa quân, trong đó có các mẹ, những người vợ, những cô gái trẻ là nữ tướng tài giỏi của thời đại ấy như Bà Man Thiện (mẹ của Hai Bà Trưng), Bát Nàn (Thái Bình), Lê Thị Hoa (Thanh Hóa), Lê Chân (Hải Phòng), Thánh Thiên (Bắc Giang)… Nghĩa quân và chủ tướng muôn người như một, tiến quân đi rầm rập, thuyền bè tấp nập, tiếng quân hô vang động khắp vùng. Xuất phát từ Mê Linh, Hai Bà Trưng đã chỉ huy nghĩa quân đánh phá các cơ quan quân sự của nhà Hán đặt tại Mê Linh, sau đó quân của Hai Bà đã tiến đánh thành Cổ Loa. Đi đến đâu nghĩa quân cũng được nhân dân hết lòng giúp đỡ và bổ sung quân số đến đấy. Từ Cổ Loa, quân thủy bộ của Hai Bà đã tiến về Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), tiêu diệt thủ phủ của chính quyền đô hộ nhà Hán ở Phương Nam. Hoảng sợ trước khí thế nổi dậy của nghĩa quân, những tên cầm đầu đã không dám chống cự lại, Thái thú Tô Định cũng phải bỏ hết của cải, giấy tờ, ấn tín rồi cắt tóc, cạo râu chạy trốn về Quảng Đông. Cuộc khởi nghĩa lan rộng ra các quận, Quần chúng nhất tề nổi dậy dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh địa phương. Chỉ trong thời gian ngắn, quân của Hai Bà đã nhanh chóng đập tan chính quyền đô hộ của nhà Hán, giải phóng và làm chủ toàn bộ lãnh thổ nước ta hồi đó, giành lại nền độc lập, tự chủ dân tộc. Bà Trưng được các tướng lĩnh và nhân dân các địa phương đồng lòng suy tôn làm vua, Bà lấy hiệu là Trưng Vương và đóng đô ở Mê Linh.

Sự thất bại của quân Đông Hán đã làm triều đình phương Bắc tức tối, hạ chiếu sai các quận trong mước cấp tốc chuẩn bị lương thực, quân số và các phương tiện chiến tranh để đánh chiếm lại nước ta. Năm 42,Hán Quang Vũ ĐếLưu Tú hạ chiếu cho các quận Trường Sa, Hợp Phố chuẩn bị xe thuyền, sửa đường và trữ lương đi đánh Giao Chỉ, nhà Hán sai Mã Viện, tên tướng già có nhiều kinh nghiệm đem 2 vạn quân và 2000 thuyền xe sang xâm lược nước ta. Chúng tập trung quân ở Hợp Phố rồi theo 2 đường thủy bộ tiến vào miền Lãng Bạc (thuộc Tiên Sơn - Bắc Ninh). Trên đường tiến quân, chúng đã bị quân của Hai Bà mai phục, đánh bất gờ chịu nhiều tổn thất. Trưng Vương cùng các tướng lĩnh chỉ huy một đạo quân xuất phát từ Mê Linh đánh xuống Lãnh Bạc, cuộc chiến diễn ra ác liệt, quân của Trưng Vương chiến đấu anh dũng, tiêu diệt nhiều địch. Nhưng vì chưa có kinh nghiệm tổ chức chiến đâu nên bị thua, phải lui về Cẩm Khê (chân ngọn núi Vua Bà – Hòa Bình) để xây dựng căn cứ, bảo toàn lực lượng và tiếp tục chiến đấu. Nơi đây đã trở thành chiến trường chống giặc ngoại bang xâm lược kéo dài 2-3 năm. Cuối cùng do lương thực và khí giới dự trữ đã cạn, quân số hao hụt, lại bị lâm vào tình trạng bao vây. Quân của Trưng Vương dần dần tan rã, Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng sông Hát tuẫn tiết và cuộc khởi nghĩa về cơ bản bị thất bại.

Mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Hai BàTrưng đã khắc dấu son đầu tiên trong lịch sử dân tộc, khẳng định vai trò to lớn của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, làm vẻ vang, rạng rỡ non sông đất nước, hun đúc truyền thống quý báu, niềm tự hào của phụ nữ Việt Nam anh hùng - bất khuất - trung hậu - đảm đang”.

Kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà Trưng là tái hiện hào khí, tinh thần đấu tranh bất khuất của Hai Bà Trưng trong lịch sử dựng nước và giữ nước, tinh thần thượng võ của dân tộc cùng những giá trị văn hóa tốt đẹp, như: tôn vinh người phụ nữ Việt Nam, luôn âm thầm hy sinh và chịu đựng để xây dựng hạnh phúc gia đình, họ xứng đáng nhận được sự tôn trọng và quan tâm hơn nữa từ một nửa kia còn lại của thế giới đồng thời giáo dục thế hệ trẻ về lòng yêu nước, đạo lý uống nước nhớ nguồn và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.